Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

Kiến trúc mộ của người Việt



Mộ cổ

Ít nhất ở đâu hiện tồn số lượng mộ cổ nhiều như ở Hội An. Và cũng ít thấy ở đâu sự phong phú, đa dạng về đặc điểm loại hình, kết cấu, thành phần chủ nhân, tập quán tống táng lại được thể hiện rõ như thế ở các ngôi mộ cổ. Những ngôi mộ này, một mặt, đã minh chứng sinh động quá trình phát triển liên tục của vùng đất Hội An muộn nhất cũng từ thế kỷ I trước công nguyên đến nay cũng như về mối quan hệ giao lưu văn hóa sâu rộng giữa các thành phần cư dân gồm nhiều quốc tịch ở Hội An, về đặc điểm văn hóa mang tính địa phương - vùng.
            Về niên đại, cho đến nay tại dãi cát phía Bắc thị xã Hội An đã phát hiện những khu di tích mộ táng thuộc thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh. Đó là những mộ chum nhiều kiểu dáng bên trong chôn theo những đồng tiền thời Tây Hán và Đông Hán thế kỷ I trước công nguyên đến thế kỷ I, công cụ lao động bằng sắt, dao có chuôi tròn mang kiểu dáng dao Chiến Quốc, nồi nấu, bát cổ bồng các loại, khuyên tai ba mấu bằng đá, đồ trang sức phổ biến thời Sa Huỳnh, trước đó đã tìm thấy tại một số vùng khác ở Việt Nam và Đông Nam Á.
           Điều khá lý thú ở chỗ, bên trên các mộ chum Sa Huỳnh là những di tích mộ cổ thuộc các thời kỳ muộn hơn. Hiện nay, tại dãi cát thuộc các xóm An Bang, Hậu Xá, Thanh Chiếm, Trường Lệ và một số cồn đất cao khác ven Thị xã đã phát hiện trên vài ngàn ngôi mộ có niên đại từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX. Nếu tiến hành điều tra, thống kê trên diện rộng con số này sẽ nhiều hơn và chính xác hơn. Riêng về những ngôi mộ thuộc thế kỷ XVII - XVIII chúng tôi ghi chép, chụp ảnh, thống kê được trên 100 ngôi. Đây là những mộ còn nguyên trạng các yếu tố cơ bản, nhất là bia, quynh, nấm và thành.


            Bia mộ Hội An, do ảnh hưởng từ nhiều luồng văn hóa trong và ngoài nước, nhất là vùng Nam Trung Hoa nên có dáng vẻ riêng, phong phú về kiểu thức và đa dạng về phong cách, trang trí,... Bia tạc bằng đá, những mộ có niên đại trước thế kỷ XIX chuyên dùng loại đá muối (sa thạch), từ thê kỷ XIX về sau phổ biến dùng loại đá cẩm thạch trắng. Bên cạnh các kiểu bia thông thường, đã tìm thấy những bia mộ kích thước 1,7m x 1m x 0,3m; bia mộ hình bán nguyệt...
            Qua từng thời kỳ trang trí bia mộ mang đặc điểm riêng, rất thống nhất về phong cách. Đây là một trong những cơ sở để xác định niên đại dựng bia. Trang trí bia mộ Hội An gồm 4 phần: lòng, diềm, đế, trán. Lòng các bia mộ thế kỷ XVII - XVIII có chữ khắc sâu, rõ nét phân biệt với các bia mộ sau này. Ở một số ít mộ cổ Trung Hoa, Nhật Bản lòng bia trang trí các hình đóa hoa, chữ triện, dơi... cách bố trí nội dung lòng bia, nhìn chung thống nhất qua các thời kỳ và ở các thành phần cư dân. Trên cùng là quốc hiệu hoặc quê quán người quá cố. Dòng bên hữu nhỏ hơn, ghi ngày tháng năm dựng bia. Số lượng chữ, cách ghi theo quy ước riêng phụ thuộc vào tập quán của mỗi thành phần cư dân. Các quốc hiệu thường gặp ở bia mộ người Việt: Đại Việt, Hoàng Việt, Nam Cố, Việt Nam, An Nam... Ở bia mộ Trung Hoa: Đại Minh, Đại Thanh. Bia mộ Nhật Bản: Nhật Bản, Chính Hộ, Bình Hộ. Mộ giáo sĩ Bồ Đào Nha: Sa Nha Quốc... Nếu không ghi quốc hiệu, người ta thay bằng quê quán của người quá cố. Cách ghi này có một quy ước khá phổ biến.
            Cũng có trường hợp người ta ghi nguyên tên quê quán vào bia, vị thế tại Hội An ta gặp khá nhiều bia mộ ghi địa danh khắp nơi: Hà Đông, Gia Định, Thiên Đô, Quỳnh Châu...
Thành phần
chủ nhân
Quê quán
người quá cố
Chữ ghi ở
bia mộ
ViệtHội An
Cẩm Phô
Thanh Châu
Hội giang
Cẩm giang
Thanh giang
Trung HoaĐồng An
Chương Châu
Trường Lạc
Long Khê
Đồng ấp
Chương ấp
Trường ấp
Long ấp
           










             Trang trí diềm, đế, trán bia thường sử dụng các đề tài:
DiềmHoa cúc dây, hoa sen dây, lá cuộn, rồng mây, hồi văn, chữ triện, mây cuộn...
ĐếHoa sen, hồi văn, hoa dây, dải lụa, cuốn thư...
TránMặt trời mây lửa, vòng lưỡng nghi, phượng chầu mặt trăng, lưỡng long tranh châu, chữ triện, hổ phù, rồng ẩn, hạt châu, khánh...

            Ở nhiều bia, các đề tài này thể hiện rất điêu luyện, chứng tỏ tay nghề khá cao của người thợ địa phương, chúng góp phần làm phong phú nghệ thuật trang trí bia mộ không những chỉ ở Hội An mà còn đối với cả nước ta nói chung.


              Vật liệu xây dựng các thành phần kiến trúc còn lại (nấm, quynh, thành) của các mộ cổ Hội An phổ biến là vôi “bồ ghè”, gạch, đá, đá ong, trong đó vôi bồ ghè (hợp chất gồm vôi giã từ vỏ sò hến, mật mía, nước ngâm từ một số vỏ cây...) là vật liệu chính để tạo nên các nấm mộ cổ. Những nấm mộ này đã tồn tại trên hai, ba trăm năm chứng tỏ được độ bền vững của vật liệu tạo thành. Nấm mộ cổ Hội An có đặc điểm thấp về chiều cao và có nhiều hình dáng: Tròn, tròn xoáy trôn ốc, hột xoài, chữ nhật, mai rùa, yên ngựa, lá sen úp... Bên dưới nấm là tam tỉnh hình chữ nhật bằng vôi hoặc gạch, đá, trong đựng thi hài và đồ tùy táng. Bên ngoài nấm thường có quynh bao quanh. “Quynh” là bộ phận kiến trúc giống hình tay ngai có hai trụ hình xoáy trôn ốc ngược chiều nhau, phía sau nhô cao, thấp dần về phía trước. Những ngôi mộ lớn bao quanh quynh là thành rộng với các trụ biểu, mảng tường và bình phong trang trí các đề tài hoa lá, tứ nghệ, tứ thời, mai hạc, tùng điểu, câu đối... Đặc biệt có những ngôi mộ xây toàn bằng đá, tọa lạc trên diện tích 150m2 đến 250m2 hoặc những ngôi mộ với nấm bên trong, quynh bên ngoài, nhà bia ở phía trước tạo dáng giống một con vật đang phủ phục rất sinh động và cũng rất tượng trưng.


             Loại hình mộ cổ Hội An không chỉ nhiều về số lượng, đa dạng về kiểu thức mà còn phong phú về chủ nhân. Không kể các di tích mộ chum Sa Huỳnh và những ngôi mộ theo chỉ định dân gian là mộ Hời, mộ Chàm, tại Hội An đã phát hiện những ngôi mộ thủy tổ tộc phái người Việt, trong đó có mộ thủy tổ tộc Trần ghi niên đại 1498, mộ thủy tổ tộc Lê con cháu Thái tổ Lê Lợi vào năm 1623, mộ có vị Chưởng Cơ, Cai Đội thời các chúa Nguyễn, mộ Thứ Phi và các tướng Tây Sơn, mộ các vị Thượng Thư, Tổng đốc triều Nguyễn... góp phần minh chứng về thời kỳ phát triển phồn vinh ở thương cảng Hội An là những ngôi mộ thương nhân, giáo sĩ, tăng sĩ nước ngoài hiện tồn tại địa phương. Đó là hàng trăm mộ cổ kiều dân và thương nhân Trung Hoa có niên đại xác định vào thế kỷ XVII - XVIII. Trong số này có thể kể mộ Cai phủ tàu Văn Huệ Hầu Khổng Thiên Như, Cai phủ tàu Ân Huệ Hầu Chu Kỳ Sơn, những người có công khai sáng Minh Hương xã tại Hội An giữa thế kỷ XVII, tháp mộ hòa thượng Minh Hải tổ khai sơn thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh ở Đàng Trong vào thế kỷ XVII... Về kiều dân Nhật Bản đã tìm thấy mộ các ông Banjiro, Gusokukun, Tani Yajirobei, thương nhân Nhật sống ở Hội An về thế kỷ XVII. Ngoài ra còn phải kể đến một số thương nhân, các giáo sĩ nước ngoài khác chôn tại Hội An, những ngôi mộ mang phong cách kiến trúc Pháp thời thuộc địa... Những ngôi mộ này mang dáng vẻ và phong cách riêng, góp phần làm phong phú đặc điểm kiến trúc của loại hình mộ cổ ở Hội An.
             Cũng cần lưu ý một điều, bên cạnh giá trị về lịch sử, mỹ thuật, kiến trúc, loại hình mộ cổ ở Hội An còn cung cấp những thông tin cần thiết cho ngành Folklo học nhất là về tập quán tang ma - tống táng của các thành phần cư dân Hội An xưa, về đặc điểm tống táng của giới thương nhân và tầng lớp thị dân ở Hội An nói riêng, xứ Quảng và cả nước nói chung.
Mộ phần bà Tâm Liên Đặng Tống Tịnh Nhơn (1931-1982) (bìa trái, dấu X) trong khuôn viên lăng mộ gia đình họ Đặng ngay phía sau chùa Trúc Lâm do hai người con Văn Đình Hữu và Văn Đặng Từ Nguyên phụng lập năm Nhâm Tuất (1982) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét