Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn tại Huế Vị trí Cửu Đỉnh tại sân Thế Miếu, sát với Hiển Lâm Các tại Đại Nội Huế Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn là chín cái đỉnh đồng với chức năng là trọng khí, là báu vật tượng trưng cho đế nghiệp của triều Nguyễn. Mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một thuỵ hiệu của mỗi vị hoàng đế triều Nguyễn.
Chín chiếc đỉnh lần lượt được đặt ở sân của Thế Miếu, sát với Hiển Lâm Các. Cao đỉnh được đặt ở trên đường thần đạo chạy từ Miếu Môn qua Hiển Lâm Các đến gian giữa của Thế Miếu - nơi đặt án và khám thờ vua Nguyễn Thế Tổ. Cao đỉnh kê ở chính giữa trong số Cửu Đỉnh và là đỉnh duy nhất được nhích về phía trước 3 mét với hàm ý tôn vinh vị vua sáng lập triều đại.
Lấy Cao đỉnh làm chuẩn, bên trái lần lượt là Nhân đỉnh, Anh đỉnh, Thuần đỉnh, Dụ đỉnh; bên phải lần lượt là Chương đỉnh, Nghị đỉnh, Tuyên đỉnh, Huyền đỉnh.
Cửu Đỉnh gắn liền với con số 9, một con số thiêng liêng theo quan niệm phương Đông, tượng trưng cho Trời, cho sự hoàn thiện tuyệt đối, cho quyền uy và sức mạnh của người đứng đầu thiên hạ.
Con số 9 cũng kết thúc một vòng lịch đại tương ứng với cửu tộc. Khởi đầu từ CAO tức thế hệ khai sáng và kết thúc ở HUYỀN là thế hệ sau cùng, khép kín một chu kỳ để đi vào cõi vĩnh hằng. Từ CAO đến HUYỀN trong hệ thống thế thứ lịch đại, mỗi thế hệ tượng trưng cho một đức tính tốt: CAO, tức người khởi dựng, tượng trưng cho sự vĩ đại, NHÂN là lòng tốt, tượng trưng đức, CHƯƠNG là sự gương mẫu, là ánh sáng, ANH là tài giỏi vinh hạnh, hiển đạt, NGHỊ là ý chí kiên cường, cương nghị, THUẦN là sự hoàn thiện, phong phú, TUYÊN là sự hài hòa, tinh thông, DỤ là nền tảng sự thịnh vượng và HUYỀN ứng với nơi sâu thẳm.
Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào năm 1835 và khánh thành vào năm 1837.
Nhìn chung, cả chín chiếc đỉnh đều có dáng giống nhau: bầu tròn, cổ thắt, miệng loe, trên miệng có hai quai, dưới bầu có ba chân.
Đặc điểm hình thể Cửu Đỉnh:
Nguyên liệu đúc Cửu Đỉnh là đồng và kẽm, có thể thêm chì, thiếc…Tổng khối lượng đồng để đúc chín đỉnh khoảng 22T. Cửu Đỉnh có khối hình lớn, phức tạp, cần độ bền vững tuyệt đối nên được đúc liền khối. Phần quai được đúc riêng rồi hàn gắn vào miệng đỉnh. Để đúc mỗi chiếc đỉnh, người ta cần phải có đến 60 lò nấu đồng, mỗi lò chỉ nấu được từ 30–40 kg đồng.
Cửu Đỉnh đúc xong vào tháng 5 âm lịch năm 1836. Vua Minh Mạng xuống lệnh chọn thợ khéo chạm khắc các hình trang trí chạm nổi vào mỗi đỉnh.
Tổng cộng có 162 tấm họa tiết chạm nổi tinh xảo trên bàu của tất cả 9 chiếc đỉnh, mỗi đỉnh gồm 18 tấm, chia làm ba tầng, mỗi tầng có sáu hình xen kẽ với 6 mảng trống, trong đó tầng trên và tầng dưới bố trí lệch đi một khoảng so với tầng giữa. Mảng hình chính ở mặt trước thuộc tầng giữa được khắc tên đỉnh với lối chữ chân phương, từng nét mạch lạc, khối chữ vuông vức. Tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và sắp xếp theo số 9. 9 vì tinh tú và hiện tượng thiên nhiên trong vũ trụ là Mặt Trời, Mặt Trăng, Gió, Sét, Mây, Mưa, Ngũ tinh, Bắc Đẩu, Nam Đẩu; 9 ngọn núi lớn là Thiên Tôn, Ngự Bình, Thương Sơn, Hồng Lĩnh, Tản Viên, Duệ Sơn, Đại Lãnh, Hải Vân, Đèo Ngang; 9 sông lớn là Bến Nghé, sông Hương, sông Gianh, sông Mã, sông Lô, Bạch Đằng, Thạch Hãn, sông Lam, sông Hồng; 9 con sông đào và sông khác là kênh Vĩnh Tế, sông Vĩnh Điện, sông Lợi Nông, sông Vệ, sông Phổ Lợi, sông Thao, sông Cửu An, sông Ngân Hà. Rồi 9 loài chim, 9 loài cây lương thực, 9 loại rau củ, 9 loài hoa, 9 loại cây lấy quả, 9 loại dược liệu quý, 9 loại cây thân gỗ, 9 loại vũ khí chiến trận, 9 loại thuyền bè, xe cộ, cờ. Tất cả những hình chạm ấy hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên sông núi đất trời Việt Nam hoành tráng, có thể coi là bách khoa thư về cuộc sống con người Việt Nam hồi nửa đầu thế kỉ 19.
Công việc chạm nổi mất khá nhiều thời gian, 8 tháng sau khi đúc xong, Cửu Đỉnh mới chính thức hoàn thành.
Hình chạm khắc cây lúa Hình chạm khắc cây ngô đồng Hình chạm khắc đèo Hải Vân Hoa sen Thống kê các hình chạm nổi trên Cửu Đỉnh:
Trải qua hơn 170 năm biến động, Cửu Đỉnh vẫn không hề thay đổi vị trí, còn lại nguyên vẹn cho tới ngày nay.
Cửu Đỉnh có thể coi là những tác phẩm mỹ thuật rất tinh tế của những nghệ nhân tài hoa, là sự kết hợp điêu luyện giữa nghệ thuật đúc và chạm nổi đồ đồng của Việt Nam, giữa văn hoá dân gian và văn hoá bác học, là bách khoa thư về cuộc sống con người Việt Nam hồi nửa đầu thế kỉ 19, là biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống nhất và ước mơ mãi vững bền của người Việt Nam.
Cửu Đỉnh là di sản văn hóa quý hiếm của văn hóa Huế nói riêng, Việt Nam nói chung.
- Xem video giới thiệu Cửu Đỉnh tại đây. Nguồn: Bảo vật Cửu Đỉnh;
- http://www.vtvhue.vn/van-hoa-van-nghe/viet-nam-dat-nuoc-con-nguoi/201301/Bao-vat-Cuu-dinh-165486/
- http://vi.wikipedia.org/wiki/Cửu đỉnh nhà Nguyễn
Bộ môn KTCN (http://bmktcn.com/index.php?option=com_content&task=view&id=5911&Itemid=153) |
Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014
Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn, Huế
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét