Trong xã hội, đời sống tâm linh - tín ngưỡng là một nhu cầu cơ bản không thể thiếu đối với con người, nó cũng bức thiết như nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại. Bởi vậy, nếu bị khủng hoảng hay mất niềm tin thì con người sẽ dễ bi quan trước cuộc sống, trước số phận. Điều đó khiến cho con người ta luôn canh cánh bên lòng ước vọng về một nơi an lành, nơi tâm hồn mình được thanh thản, không phải đối chọi với đời, nơi con người ta có thể tĩnh tâm để chiêm nghiệm về lẽ đời thiệt hơn. Từ thực tế đó, hàng loạt các công trình kiến trúc thờ cúng trong dân gian của vùng Hải Lăng – Quảng Trị đã được ra đời, hiện thực hoá cho đời sống tâm linh của người dân Việt.
Các công trình kiến trúc thờ cúng dân gian được xây dựng và phát triển nhằm mục đích phục vụ cho tập tục thờ cúng của người dân Việt. Do vậy, kiến trúc thờ cúng dân gian đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của người Việt Nam. Vì thế trên khắp lãnh thổ Việt Nam, đâu đâu chúng ta cũng bắt gặp các công trình kiến trúc loại này, từ những đền miếu, miễu am, đến cả chùa chiền, đình làng, nhà thờ họ… dù mỗi nơi lại có đôi nét khác nhau trong cách thức trang trí xây dựng. Đất Hải Lăng cũng không ngoại lệ, nơi đây đang tồn tại rất nhiều loại hình kiến trúc dân gian, nhưng do nhiều lý do khách quan, nên hiện nay ở Hải Lăng số lượng của một số loại hình kiến trúc bị suy giảm đáng kể như Đàn hoặc lăng mộ cổ không còn phổ biến trên toàn huyện nữa. Hiện nay, các công trình kiến trúc dân gian ở Hải Lăng chỉ còn tập trung chủ yếu vào 4 nhóm kiến trúc sau: Đền – Miếu – Miễu – Am, Đình, Chùa và Nhà thờ họ tộc.
Bên cạnh đó, sự phân bố về số lượng các loại hình kiến trúc dân gian này cũng có những điểm đáng chú ý; đó là, dù trải rộng trên khắp lãnh thổ Việt Nam nhưng những công trình này chủ yếu tập trung ở khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ, còn càng vào dần phía Nam thì những kiến trúc này thưa dần.
Đối với việc phân loại các loại hình này chủ yếu là dựa vào những đặc điểm của từng loại hình, thời gian ra đời và tiến trình phát triển, quy mô cũng như phong cách xây dựng để phân loại các loại hình này.
Bài viết này sẽ lần lượt trình bày những nét chính trong các loại hình kiến trúc dân gian của Hải Lăng - Quảng Trị . Bắt đầu từ "Đền - Miếu - Miễu - Am" đến kiến trúc Đình, Chùa Làng, và cuối cùng là Nhà thờ họ - Nhà thờ phái.
Trước hết sẽ là những nét chính trong loại kiến trúc có thể xem là hình thành sớm nhất của khu vực này. Đó là loại hình "Đền - Miếu - Miễu - Am"
Đền miếu ở Hải Lăng có quy mô khiêm tốn. Nó không thể hiện được quy mô to lớn, lấn áp như Đình, hay Nhà thờ họ mà thể hiện sự khiêm nhường trong lối xây dựng. Những công trình này được xây dựng theo lối kiến trúc nhà rường truyền thống của vùng Trung Bộ, chịu ảnh hưởng lớn của kiến trúc nhà rường theo phong cách thời chúa Nguyễn, triều Nguyễn.
Vùng Hải Lăng hầu như có đầy đủ các loại hình Đền Miếu này. Nhưng trong số đó những loại kiến trúc xưa (chủ yếu được làm hoàn toàn bằng gỗ theo kiểu nhà sàn) vẫn còn lại khá nhiều, nhiều hơn rất nhiều so với các khu vực khác, và với cả vùng Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên những loại hình này rất khó bắt gặp, do quan niệm xưa thường chọn những vùng đất yên tĩnh để lập miếu thờ. Cũng vì thế mà hiện nay những ngôi miếu cổ này thường nằm khá sâu trong những khu vực ít dân cư qua lại
Trong giai đoạn về sau, xuất hiện thêm loại hình kiến trúc đền miếu được xây dựng bằng chất liệu gạch, đá và gắn kết với nhau bằng mật mía, vôi hàu. Với loại hình nầy bên cạnh việc thể hiện những mô thức trang trí theo phong cách Bắc Bộ như vòm cuốn, mái cong, thì phần xây gạch lại chịu ít nhiều ảnh hưởng của phong cách xây dựng của người Chăm; điều đó khiến cho những công trình này không những tăng tính bền vững vì sử dụng chất liệu gạch,đá, ximăng mà còn thể hiện được trình độ cao trong xây dựng vì sử dụng mạch vữa để liên kết vật liệu công trình.
Ngoài ra, đền miếu ở Hải Lăng cũng có nét giống như kiến trúc của nhà thờ họ (về quy mô thì nhỏ hơn) vì có kết cấu theo kiểu nhà rường 1gian 2chái (có thể có hoặc không có chái kép). Loại đền miếu này thường dùng để thờ nhiều vị thần cùng một lúc. Tuy nhiên loại hình này lại ra đời khá muộn (thế kỷ thứ XIX –XX) và rất ít gặp trong các làng xã.
Số đền miếu được xây dựng dưới dạng kiến trúc khung gỗ chịu lực theo mô thức nhà rường, phần sàn được đỡ trên 4 đến 6 trụ cột hiện nay còn rất ít. Nhiều bộ phận được thay thế, đặc biệt là phần mái ngói của công trình (được thay sang loại ngói Mác Xây), thậm chí còn được thay thế các trụ cột gỗ bằng trụ cột bê tông khiến cho công trình mất đi dáng vẻ mềm mại, nhẹ nhàng và thanh thoát ban đầu.
Đền Văn Thánh - làng Hồi Kỳ - Hải Chánh - Quảng Trị
Miêu bà hoả - xã Hải Tân, huyện Hải Lăng, Quảng Trị
Miêu bà hoả - xã Hải Tân, huyện Hải Lăng, Quảng Trị
Miếu bà thứ phi Linh Diệu, làng Thuận Nhơn, xã Hải Vĩnh, Hải Lăng, Quảng Trị
Miếu Âm hồn, làng Thuận Nhơn, xã Hải Vĩnh, Hải Lăng, Quảng Trị
Đàn Âm hồn, làng Hồi Kỳ, xã Hải Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị
Miêu Ông, làng Hồi Kỳ, xã Hải Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị Đối với đình làng ở Hải Lăng – Quảng Trị, thì ngoài những điểm chung, đình của khu vực này còn có những nét khác biệt so với lối kiến trúc chung (mà ảnh hưởng rõ nhất là khu vực Bắc Bộ) đó là:
Vê cấu trúc đình làng: Ngoài tổng thể mặt bằng, hệ thống tường gạch bao quanh ở bên ngoài, và phần Nghi môn của những ngôi đình làng ở Hải Lăng đều thể hiện những nét đặc trưng của đình làng miền Trung (so với đình làng miền Bắc và miền Nam). Thì hệ thống bình phong là một nét đặc trưng của kiến trúc vùng Hải Lăng – Quảng Trị nói riêng và của toàn khu vực Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên nói chung, trong tổng thể kiến trúc chung của cả nước. Đặc điểm này không chỉ thể hiện trong các công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng mà còn xuất hiện cả trong những kiến trúc nhà ở dân gian của người dân nơi này.
Về bố cục xây dựng: So với đình miền Bắc thường thiết kế theo lối chữ Nhất “一”, thì khi vào đây, người dân Hải Lăng ngoài lựa chọn cách thiết kế trên còn sử dụng thêm lối thiết kế chữ Nhị “二” (với 2 toà đại đình xây dựng song song với nhau). Toà đại đình ở trước được dùng làm nơi hội họp, ăn uống còn phần đại đình phía sau được dùng làm nơi thờ cúng. Cả 2 toà đại đình này được nối thông với nhau bằng một hệ thống cửa bản khoa, hay còn được gọi là cửa “thượng song hạ sổ”.
Đối với kiểu nhà chữ Nhị “二” này, để tránh nước mưa đọng vào khoảng giữa hai mái nhà, người ta đã cho xây dựng ở đây một hệ thống máng xối (giai đoạn đầu thì thiết kế còn khá đơn giản, chỉ có một ống hình tròn cho nước có thể chảy xuống) nhưng về sau, để làm cho công trình thêm sinh động hơn (khoảng cuối thế kỷ thứ XIX) người ta đã dùng loại “máng xối hình cá” (như máng xối ở chùa Thiên Mụ - Huế).
Hay môt loại nữa gồm 1 toà đại đình nằm theo chiều dọc, mặt tiền mở ra từ phía gian chái. Đây là kiến trúc phổ biến nhất vào khoảng thế kỷ thứ XVII - XVIII, nhưng hiện nay rất ít thấy xuất hiện, một phần do chiến tranh tàn phá, một phần do xu hướng xây dựng của làng. Và, đình làng Diên Sanh là một kiểu kiến trúc có lối xây dựng như vậy.
Hiện nay, trong các loại hình trên thì ở Hải Lăng xuất hiện chủ yếu là kiến trúc chữ Nhất “一”, như đình làng Hồi Kỳ, đình Phú Long.
Có thể nhận thấy rằng các kiểu nhà này đều có một điểm chung, đó là: Vùng Bình Trị Thiên có kiểu kiến trúc của nhà rọi và nhà rường đều thích nghi với việc phòng chống bão lụt lớn.
Kết cấu của Nhà Rọi: Với Nhà Rội, trong mỗi vì kèo có 3 cột chôn xuống đất, cột giữa cao hơn nà nhô cao lên tận đỉnh nóc, tạo kiểu vì kèo chữ thập chống đỡ trực tiếp cho nóc mái, đảm bảo một kết cấu vững chắc trước bão tố.
Kết cấu của Nhà Rường: Với Nhà Rường, trong mỗi vì kèo có 4 cột tỳ lên mỗi khối đá tảng, tạo nên kiểu vì kèo chồng; trong đó có các trến nối lưng chừng giữa hai cột ở độ cao quá đầu người vừa làm cho khung nhà vững chắc, vừa làm các dầm gác ván chống lụt nhanh nhất, lại có con xuyến nối giữa hai kèo trên làm cho vì nóc cós kết cấu vững chắc hơn”.
Về quy mô xây dựng: Đình làng ở Hải Lăng có quy mô không lớn như các ngôi đình ngoài Bắc. Vì người dân khi mới vào đây lập nghiệp thì cuộc sống vẫn chưa đi vào ổn định (đa số thành phần dân cư này chủ yếu là những người nghèo, hay những người có tội với triều đình…) di cư vào đây, nên họ chưa đủ khả năng xây dựng những ngôi đình lớn như ngoài Bắc. Vì thế một số khu vực ở Hải Lăng như Hải Ba, Hải Lâm, Hải Quế, Hải Sơn trong giai đoạn sớm này xuất hiện chủ yếu là kiểu “đình lộ thiên” (đình không có nhà), kiến trúc này chỉ là một sân gạch lớn làm nơi sinh hoạt chung mà thôi. Việc xuất hiện loại hình “đình lộ thiên” đã chứng minh được sự ăn sâu của đời sống tâm linh của người dân Việt. Nên dù có khó khăn gian khổ nhưng họ vẫn ưu tiên trên hết là việc xây dựng một ngôi đình để xác lập một thể chế văn hoá, tín ngưỡng sơ khai.
Phần lớn các ngôi đình ở Hải Lăng cho đến ngày nay đều ảnh hưởng của lối kiến trúc dưới thời các vua Nguyễn. Nhìn chung đây là giai đoạn mà những công trình này chỉ được tu bổ, sửa chữa nhiều hơn là xây dựng mới. Cũng vì thế mà một số đặc điểm về kiến trúc truyền thống đã bị thay đổi đi ít nhiều.
Về phần mái đình: Mái đình ở Hải Lăng cũng có những điểm khác biệt so với đình làng Bắc Bộ. Phần mái thường không võng xuống, các đầu đao thì cũng ít được làm cong vút lên như cách thức xây dựng của miền Bắc. Điều này giúp cho tổng thể các ngôi đình ở Hải Lăng khi nhìn vào có cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát, ít có cảm giác nặng nề như đình miền Bắc (đình miền Bắc thể hiện theo một thiết chế xã hội phong kiến trong một khuông khổ hết sức khắt khe). Còn đình Hải Lăng – Quảng Trị thì thoáng hơn do phần lớn được xây dựng bởi những con người biết chấp nhận thử thách, ra đi để lập nghiệp. Nên trong suy nghĩ của họ thông thoáng hơn, cởi mở hơn. Có vậy mới dễ dàng tồn tại trên mảnh đất được mênh danh là “Ô châu ác địa” này.
Phần mái công trình nhẹ nhàng hơn so với Bắc Bộ còn xuất phát từ sự phù hợp với điều kiện khí hâu nơi đây. Vì khu vực miền Trung là nơi quanh năm thường xuyên chịu khí hậu khắc nghiêt. Đặc biệt là vùng đất Hải Lăng – Quảng Trị chịu ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam khô nóng, mùa mưa thì dầm dề và kéo dài, lại hay giông bão. Vì thế, một mái đình quá nặng, cồng kềnh là không hợp lý và sẽ khó đương đầu với thời tiết khắc nghiệt. Phần mái nhẹ kết hợp với kiến trúc nhà rường dễ lắp ghép sẽ là cơ hội tốt để nếu chẳng may phải di dời thì cũng dễ làm hơn, thuận tiện hơn.
Xuất phát từ thực tế đó, nên hầu như các mái đình ở đây đều chiếm “nữa già” so với chiều cao của ngôi đình, phần mái thường xoè rộng một góc khoảng 350 để hạn chế sức gió, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho nước mưa chảy, tránh việc đọng nước trên phần mái, hay là bị xóc nước vào bên trong mái gây mục cho hệ thống rường cột của công trình (do phần mái đình giai đoạn sớm thường được làm chủ yếu bằng vật liệu gỗ là chính).
Một điểm đặc biệt ở phần mái của đình ở khu vực này là sử dụng đến 2 lớp ngói. Đó là lớp ngói ở mặt ngoài có nhiệm vụ để tránh nước mưa, cũng như những tác động xấu vào bộ khung của mái. Lớp ngói được lót bên trong mà chúng ta có thể dễ nhận ra khi vào bên trong nội tẩm của đình. Phần ngói này chủ yếu được lót vừa để trang trí làm đẹp cho mái đình khi nhìn từ bên trong, nhưng đồng thời nó cũng có nhiệm vụ chống nóng vào mùa hè, và giữ ấm vào mùa đông.
Một điểm chú ý nữa trong kiến trúc phần mái, là phần giữa của 2 lớp ngói này được gia cố thêm một lớp đất sét trộn với nước muối sống nhằm vừa hạn chế nước từ bên ngoài thấm vào, vừa cách nhiệt cho phần nội tẩm, nhưng cũng vừa có nhiệm vụ giữ ổn đinh cho kết cấu mái của ngôi đình trước sức gió, hay những chấn động mạnh từ mặt đất.
Về trang trí mỹ thuật trong kiến trúc:So với các đình làng Bắc Bộ, trang trí của các đình làng vùng Hải Lăng đặc sắc hơn, nhiều hoạ tiết trang trí hơn. Sự đặc sắc trong cách trang trí này xuất phát từ sự kết hợp của giữa lối trang trí theo phong cách Bắc Bộ, kết hợp với nghệ thuật “ghép mảnh sành sứ” rất phát triển của khu vực miền trung (đặc biệt được hình thành vào khoảng thế kỷ XVI - XVII. Đó là giai đọan các chúa Nguyễn đã thiết lập ở Đàng Trong những phủ chúa, những trung tâm văn hóa có một sức tồn tại, lan tỏa mạnh mẽ và ảnh hưởng đến sự phát triển chung của vùng đất Thuận Hóa.Từ sự thiết thực của nhu cầu trang trí mà các nghệ nhân đã sử dụng mảnh sứ được khảm ghép trang trí cùng với nề ở các chùa chiền, am miếu, bình phong, bể cạn rất phổ biến trong các làng xã ở Huế. Sau năm 1802 khi Nguyễn Ánh đánh lên ngôi lập ra vương triều Nguyễn, việc xây dựng kinh đô mới được đặt ra khẩn thiết, tạo điều kiện cho nghệ thuật trang trí - hội họa - điêu khắc và thể loại khảm sứ phát triển. Trước yêu cầu to lớn của việc xây dựng kinh thành mới, nhà Nguyễn đã trưng tập nhiều thợ giỏi khắp nước về kinh đô, trong đó có những người thợ nề khảm được gọi từ xứ Quảng Nam, Quảng Ngải, Thanh Hóa, Hà Nam).
Ngoài ra, ở đây còn rất phát triển lối tô vẽ bằng bột màu, một thế mạnh trong lối trang trí kiến trúc của miền trung. Nó thể hiện khá đầy đủ và cụ thể trên các bờ nóc, bờ dải, các đầu đao của bộ mái, trên các cột, hay phần nghi môn của đình … với một hệ đề tài vô cùng phong phú như: Tứ linh, tứ thời, bát bửu, hay các hoa văn cây lá, dây lá hoá rồng, hoá phụng…, những hoạ tiết động thực vật như: mai điểu, quả phật thủ, quả đào tiên…
Trang trí kiến trúc của đình ở Hải Lăng còn thể hiện được sự kết hợp hài hoà giữa thiên nhiên và con người, tạo thành một tổ hợp gợi nên sự ấm cúng, tôn nghiêm đã đi vào tâm thức của con người, dung hoà được cả những phong cách siêu phàm, thoát tục của đạo Lão và đạo Phật.
* Trang trí nội thất: Đây là “nghệ thuật kết hợp đưa các hình khối, điểm, đường nét, màu sắc vào trong một bố cục không gian nhất định mang tính khoa học và kỹ thuật cao, đòi hỏi tính chính xác trong kích thước, trong kết cấu bố trí đồ vật, trong xử lý ánh sáng và màu sắc”.
Những nhà “trang trí nội thất” thường tận dụng tất cả các thủ pháp nghệ thuật như chạm trổ, đắp nổi vôi vữa, ghép mảnh sành sứ lên những điểm trống của đình nhằm làm cho không gian bên trong của đình thêm đặc sắc, sinh động.
Ví dụ như ở trên các vì kèo, bụng các cầu điếu thì được trang trí bằng nhiều motip như “Tam sơn”, “Tam phúc”, các đầu trến thì trang trí hình dây lá hoá rồng, các đầu tay kèo thượng, kèo hạ, kèo cù …được trang trí bằng hình ảnh đầu rồng rất sinh động…
Loại hình trang trí của Hải Lăng – Quảng Trị chịu ảnh hưởng lớn bởi phong cách của các đời chúa Nguyễn, các vua Nguyễn, cho nên nó khác so với kiểu trang trí ở ngoài Bắc (thường sử dụng lối trang trí trên gỗ là chính), thì tại Hải Lăng, loại hình chủ đạo trong trang trí trước hết phải nhắc đến là kỹ thuật “nề vôi đắp vữa”, “ghép mảnh sành sứ”, hoặc “tô vẽ bột màu lên phần ngoài của kiến trúc”.
Những đề tài thường thấy là “Hổ, rồng, dơi, rùa, hạc…”, hay những hình ảnh về hoa lá thiên nhiên như: “Mai, lan, cúc, trúc, sen, tùng…” với những nét trang trí và màu sắc rất sinh động. Chính điều đó đã khiến người xem khi nhìn vào có cảm giác rất chân thật, gần gũi. Đây chính là một nét đặc trưng của nghệ thuật trang trí vùng Trung Trung Bộ mà Hải Lăng là một điển hình cụ thể cho phong cách đó.
Qua các hình ảnh trang trí, những người thợ đã lồng ghép những tâm tư tình cảm, những ước muốn thanh bình, hạnh phúc, trường thọ… và thổi hồn vào trong những đường nét chạm trỗ vô cùng linh diệu qua các đề tài như Tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng), hình ảnh con dơi, con cá, mặt hổ phù, long mã tải lạc thư, Tứ thời (Mai, Lan, Cúc Trúc)
*Trang trí ngoại thất: Nếu như trang trí nội thất chú trọng vào việc thể hiện những đường nét chạm trổ tinh tế, tỉ mĩ thì phần trang trí ngoại thất lại vừa chú trọng đến việc thể hiện những đường nét trang trí chạm trổ tỉ mĩ, nhưng phải vừa làm sao thể hiện được sự cân đối hài hoà giữa trang trí với phối cảnh xung quanh. Vừa uy nghiêm nhưng phải vừa gần gũi, ấm áp.
Đối với các công trình ở Hải Lăng, thì thông thường trên phần mái của công trình thường được trang trí bằng hình như tứ linh, giao lá. Hai đầu bờ nóc thì trang trí bằng hình ảnh “lưỡng long chầu nguyệt”. Trên các bức tường, trụ hành lang thường được trang trí thêm nhiều hình ảnh khá đặc sắc như: Long ẩn vân, trang trí bằng hình ảnh bát bửu, các câu đối bằng chữ Hán…
Một đặc điểm nữa trong trang trí đình làng ở khu vực miền Trung này chính là sự xuất hiện của “các ô hộc”. Hình thức chia ô này đã có từ rất sớm, song chỉ đạt tới trình độ cao vào khoảng giữa thế kỷ thứ XIX – XX. “Người ta nghĩ rằng khởi nguyên của nghệ thuật chia ô được gắn với cư dân du mục, đó là hình ảnh của các mảnh da thú được khâu chắp lại để may quần áo hay lều ở…; nghệ thuật này đi xuống phương Nam và đã ảnh hưởng đến trang trí trên trống đồng Đông Sơn với các ô nhỏ ở tang trống.
Từ thời tự chủ, cách chia ô trong tạo hình của người Việt đã phổ biến, nhưng mỗi thời kỳ có một cách khác nhau. Trong thời Lý, trang trí tỉ mỉ đường nét kín đặt, đường viền các khung ô thường bị “mờ” đi trước những hành vân xoắn hay “song” hình mây núi… Hơn nữa khung bên cạnh thường có những motip tương tự, như vậy sự riêng biệt của từng khung bị hạn chế rất nhiều. Nghệ thuật thời Trần cũng tương tự như thời Lý, song xu hướng dần dần trở nên thoáng đãng hơn. Thông thường trong một khung là trọn cả một đề tài cần thể hiện, và khoảng trống của khung cùng ý nghĩa của đề tài đã làm cho không gian của mảng chạm đã bị co hẹp”.
Đình làng Câu Nhi, Hải Tân, Quảng Trị
Đình làng Câu Nhi, Hải Tân, Quảng Trị
Bình phong đình làng Câu Nhi, Hải Tân, Quảng Trị
Đình làng Câu Nhi, Hải Tân, Quảng Trị
Đình làng Hồi Kỳ, Hải Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị
Bình phong đình làng Hồi Kỳ, Hải Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị
Bình phong đình làng Hồi Kỳ, Hải Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị
Đình làng Hồi Kỳ, Hải Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị
Đình làng Phú Long
Đình làng Phú Long
Đây là loại hình có lịch sử xây dựng khá muộn và quy mô kiến trúc không lớn như chùa ở ngoài Bắc, hay những ngôi chùa ở Huế. Nhưng công trình này chủ yếu là những ngôi chùa làng, được xây dựng theo thế hoà mình vào kiến trúc nhà ở của nhân dân.
Vì thế, cảnh chùa ở Hải Lăng mang một phong cách dân dã hơn rất nhiều so với chùa ở những nơi khác. Và do trải qua một thời gian dài trong binh lửa chiến tranh cho nên hầu như những ngôi chùa còn lại cho đến ngày nay ở khu vực này không còn nguyên vẹn như trước nữa, mà ít nhiều đã bị sửa chữa, thậm chí là làm mới lại. Cũng vì thế, việc nghiên cứu diện mạo kiến trúc chùa ở Hải Lăng cũng gặp không ít khó khăn.
Tuy nhiên, dựa trên những cơ sở nghiên cứu của những người đi trước, chúng ta có thể khái quát lên được những nét đặc điểm riêng trong lối kiến trúc chùa của vùng đất Hải Lăng so với các vùng miền khác trên cả nước. Cụ thể:
Kiến trúc chùa: Lối vào chùa theo kiểu “Nôi công ngoại quốc” không thấy xuất hiện trong kiến trúc chùa miền trung nói chung và Hải Lăng nói riêng. Nguyên do là vì người Việt khi di cư vào đây theo Chúa Nguyễn Hoàng (vào khoảng những năm 1558 – 1600), đã đoạn tuyệt với chính quyền Đàng Ngoài. Vì thế kiểu kiến trúc “nôi công ngoại quốc” hình thành ở ngoài Bắc giai đoạn này không thể xâm nhập vào miền Trung được.
Chùa ở Hải Lăng chủ yếu có dạng chữ Nhị “二”, chữ Đinh “丁”, hay chữ Tam “三” gồm phần Tiền đường, chánh điện và nhà tổ ở phía sau
Khu vực Bắc Bộ giai đoạn triều Lý đã xuất hiện nhiều kiến trúc tháp Stupa. Đến giai đoạn Trần Lê thì không còn nữa. Vì thế khi vào miền Trung – Hải Lăng – Quảng Trị thì kiến trúc này không còn sử dụng nữa. Có chăng chỉ là một cây tháp cao được dựng lên ở giữa sân chùa, có đặt một số tượng phật thờ ở đó.
Chùa khu vực Hải Lăng cũng bắt đầu xuất hiện kiểu kiến trúc nhà chữ Khẩu “口”. Đây là một điểm đặc biệt trong kiến trúc của khu vực này (loại hình này không thấy xuất hiện ở Bắc Bộ, Nam Bộ).
Kiến trúc này xuất hiện được lý giải bởi lý do: xuất phát từ hiện tượng Tứ thiên vương gắn liền với tượng Thích Ca nhập niết bàn, nên trong quan niệm của người Ấn Độ thì họ cho số 4 là số thiêng. Người Chămpa khi tiếp nhận văn hoá Ấn Độ giáo thì họ đã xây dựng những ngôi tháp Chăm của mình với 4 mặt. Và biểu hiện rõ nhất của các tháp Chăm là chân vuông, các tháp phụ bao quanh tháp chính cũng vuông đúng 4 hướng, đỉnh chóp của tháp Chăm thường có 4 tầng, và 4 bên mỗi tầng chỏm đều có 4 chỏm nhỏ (như 4 vị thiên vương đang gác). Chính từ những quan niệm đó, người Việt tiếp thu và chuyển hoá nó để hình thành nên ngôi chùa chữ Khẩu “口” (gồm 4 ngôi nhà bao quanh).
Một lý giải khác để có loại kiến trúc nhà chữ Khẩu “口” này là: những người dân miền trung này chủ yếu là những lưu dân từ Bắc vào, đang chịu ảnh hưởng bởi những tư tưởng Nho giáo hết sức sâu đậm. Đến giai đoạn các Chúa Nguyễn, các Vua nhà Nguyễn thì Nho giáo vẫn còn đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của người dân. Trong quan niệm của Nho giáo thì luôn luôn đề cao mệnh trời. Vì thế kiểu kiến trúc nhà chữ Khẩu “口” sẽ là kiến trúc thích hợp nhất cho quan niệm đó (vì những ngôi chùa chữ Khẩu“口” tạo nên một sân Thiên quang tỉnh (giếng ánh sáng) ở giữa, toả vào những không gian kiến trúc chung quanh).
Ở những ngôi chùa chữ Khẩu “口” này thường thấy xuất hiện 2 món bảo khí: một bên là “chuông”, một bên là “trống” (đây là điều ít thấy xuất hiện ở Bắc Bộ) là loại hình phổ biến hầu khắp các ngôi chùa ở miền Trung.
Theo quan niệm Bắc Bộ thì chùa chỉ có tiếng chuông, tiếng mõ. Còn đình thì mới có tiếng trống, và quan niệm đó dường như đã ăn sâu vào cuộc sống của con người nơi đây. Những đó là quan niệm của miền Bắc Bộ, còn ở miền Trung lại không có sự phân định ranh giới đó, mà người miền Trung lại biểu hiện cho xu hướng kết hợp tín ngưỡng “ Thần - Phật”. Nghĩa là kết hợp cả quan niệm thờ thần ở Đình, Miếu và quan niệm thờ Phật ở chùa (đối với miền Nam do thành phần dân cư ở đây chủ yếu cũng là người miền Trung di cư vào, nên cũng có chung đặc điểm như miền Trung trong việc thờ 2 món tự khí này).
Đa số các tháp cổ ở miền Bắc thường có kiến trúc hình trụ vuông (tháp chùa Dâu, tháp Phổ Minh, tháp chùa Then ở Vĩnh Phúc…) Điều này thể hiện quan niệm nhất quán trong lối kiến trúc của miền Bắc với lối kiến trúc Stupa của Ấn Độ. Với người miền Trung, kiến trúc tháp hình trụ vuông cũng có thấy xuất hiện nhưng nó chỉ tồn tại trong giai đoạn sớm mà thôi. Còn hiện nay chỉ thấy phổ biến kiểu kiến trúc tháp hình lục lăng hay bát giác.
Theo quan niệm, người miền Trung cho rằng: “hình lục lăng hay hình bát giác là biểu hiện của đường tròn, mà đường tròn là biểu hiện cho trời.
Theo Kinh dịch Trung Hoa thì 1,3,5 là số dương, 3 biểu thị cho một đường tròn (số Pi = 3,14); 2,4 là số âm, số 2 biểu thị cho cạnh góc vuông để từ đó mà cho ra hình lục lăng, bát giác).
Một điểm chú ý nữa là các tháp ở miền Trung đều chỉ có 7 tầng (theo quan niệm thì con người có 7 lỗ vía, mỗi con người phải có 7 lần chuyển kiếp mới tái sinh hoàn thiện). Cũng vì thế mà trong giai đoạn từ chúa Nguyễn trở về sau thì chỉ có những vị sư được nhà nước phong chức “Tăng Cang” thì khi chết mới được xây tháp 7 tầng.
Mái chùa ở Hải Lăng xưa thường được xây dựng có 1 tầng, nhưng hiện nay chúng ta còn thấy thêm kiểu kiến trúc 2 mái chồng lên nhau theo kiểu “cổ diêm”. Đây là phong cách chịu ảnh hưởng của kiến trúc cung đình Huế mà ra. Với kiến trúc này, đã làm độ cao từ trên nóc xuống được giảm đi ít nhiều, lại vừa tạo ra cảm giác thông thoáng, kiến trúc thanh thoát hơn.
Về bố cục ngôi chùa:
*Cổng chùa: Từ ngoài vào, khuông viên được phân định bằng hệ thống la thành bao quanh và cổng chùa. Cổng chùa được xây dựng chủ yếu gồm có 2 dạng cửa “Tam Quan”: [1]
+ Cửa theo lối kiến trúc cổng chùa Tam quan: đây là loại kiến trúc cổng được hình thành vào giai đoạn sớm, khoảng cuối thế kỷ thứ XVII. Loại kiến trúc này thường được xây dựng bằng gạch theo kiểu vòm cuốn với gác vọng lâu ở phía trên, hay xây dựng bằng khung gỗ theo kiểu nhà 1gian 2chái được lợp ngói phía trên).
+ Cửa theo lối cổng trụ: chủ yếu được xây dựng bởi một hàng trụ biểu bằng gạch, hoặc bằng tre vươn lên chế ngự chiều cao không gian.
* Sân Chùa:Thông thường ngay sau cổng tam quan thường là một khoảng sân rộng dùng làm nơi sinh hoạt định kỳ của các tăng chúng. Ngày nay, kiến trúc này đã ít nhiều có thay đổi, nhiều ngôi chùa đã bắt đầu xây thêm nhiều công trình kiến trúc phụ ở đây như: xây “tượng đài Quán Thế Âm Bồ Tát” để thể hiện tinh thần “cứu nạn cứu khổ” của Phật giáo đối với nhân loại.
*Phật đường: Công trình chính của ngôi chùa. Kiến trúc này ở Hải Lăng – Quảng Trị thường được xây dựng theo 2 dạng sau:
+ Kiến trúc chùa chỉ có một điện thờ:Kiểu Chùa loại này được xây dựng gồm có 3 gian 2 chái. Được bố trí theo chiều dọc, mặt tiền của ngôi điện mở ra từ gian chái. Kiểu này phổ biến ở những ngôi chùa làng mang ảnh hưởng của Phật giáo Đại Việt, mà trong dân gian thường hay gọi, đó là dạng thức “Đình ngang, chùa dọc”.
Với kiến trúc chùa này thì phần tiền đường bao gồm không gian của gian chái và một gian phía trước. Còn 2 gian còn lại được sử dụng làm nơi thờ Phật. Gian chái còn lại phía sau được dùng làm nơi thờ thần. Ngoài ra, còn có một nhà ngang ở phía sau được sử dụng làm nơi ở của các vị sư trù trì trong chùa, hoặc là những người được dân làng cử ra để coi sóc chùa.
Lối kiến trúc này giống như kiểu kiến trúc của nhiều ngôi đình làng ra đời vào giai đoạn đầu (như đình làng Diên Sanh ở Hải Lăng là một ví dụ). “Theo nhiều nhà nghiên cứu thì lối kiến trúc này được hình thành vào khoảng cuối XVI – XVII”
+ Có từ một đến nhiều nếp nhà được bố trí theo chiều ngang:kiến trúc này thường thấy khá nhiều ở các niệm phật đường ở các làng xã khởi tạo muộn trong các thế kỷ thứ XIX –XX. Kiến trúc này thông thường được chia làm 3 phần:
Tiền đường: (là nơi các tăng ni ngồi tụng kinh niệm Phật).
Chính điện: (dùng làm nơi tiến hành nghi lễ, nơi các nhà sư tiến hành kinh lễ và là nơi để thờ Phật).
Hậu liêu: (nơi thờ sư tổ, thờ các vị sư trù trì và thờ các chư vị hương linh Phật tử.
Ba không gian này có khi được phân bố trong 2 công trình kiến trúc nối liền nhau tạo thành dạng chữ Tam “三”, nhưng có khi được bố trí theo dạng chữ Nhị “二”, có khi lại tập trung vào làm một theo lối chữ Nhất “一”, hoặc tách ra thành 3 công trình độc lập với nhau.
Về trang trí nội thất trong chùa:Thường có phần khiêm nhường hơn so với những nơi khác. Chùa ở Hải Lăng chỉ tập trung vào kỹ thuật chạm khắc các bộ phận gỗ và cột bằng ximăng mà thôi. Còn những bộ phận khác thì ít chú ý đến. Đề tài trang trí trong chùa ở nơi đây vì thế cũng đơn giản hơn rất nhiều. Môtip mà chùa Hải Lăng hướng đến không tập trung đi vào mô tả cuộc sống sinh hoạt hằng ngày mà chú trọng đi sâu vào việc thể hiện những tư tưởng của Phật giáo, Đạo giáo… như đề tài Bát bửu.
Hay đề tài động thực vật (đề tài này không chỉ giới hạn trong bộ “Tứ linh” (Long, Kỳ Lân, Quy, Phụng) mà còn mở rộng ra với nhiều loài vật khác như dơi (Phúc), cá (Ngư thuỷ), thỏ (Ngọc thố), hươu, nai (Lộc)…), đề tài thực vật thì có “Tứ quý” (mai, lan, cúc, trúc), “Tứ thời” (mai, sen, cúc, tùng), hay cả những đề tài kết hợp như: “Mai điểu (cành mai với chim), liên áp (sen với Chim Uyên ương hoặc chim Sâm cầm ),tùng hạc, tùng lộc, tùng thạch (cây Tùng và Đá)… Các đối tượng này được sử dụng một cách dung hoà vào với nhau, chứ không có sự phân biệt loại này chỉ sử dụng cho đình, loại này chỉ sử dụng cho chùa...
Ngoài ra, các ngôi chùa còn sử dụng thêm kỹ thuật chạm khắc trên các cấu kiện gỗ, vẽ sơn, vẽ bột màu lên tường, sử dụng phương pháp đắp vữa và ghép mảnh sành sứ.
Vê trang trí ngoại thất trong chùa: Được trang trí một cách khá cầu kỳ và chi tiết, đặc biệt là ở phần nóc mái của công trình. Tại đây thường sử dụng những hình ảnh đắp nổi như “lưỡng long chầu nguyệt”, “lưỡng long triều nhật”, “lưỡng long chầu luân xa”. Trên các bờ dải, đầu đao thì được trang trí bằng hình ảnh “Tứ linh”, hình ảnh “giao lá”.
Về bố cục tượng thờ trong chùa: Trong kiến trúc chùa ở miền Trung – Hải Lăng thì thông thường gian chính của điện thờ dùng làm nơi thờ Phật, và ngay sau điện thờ Phật là gian hậu liêu dùng để thờ vị Sư tổ Bồ Đề Đạt Ma (pho tượng này thường có kích thước không quá lớn, có thể là tượng hoặc có thể là tranh vẽ) và bàn thờ các vị sư khai sơn chùa, các vị trù trì ở chùa và bàn thờ các hương linh Phật tử mà đạo hữu gửi vào chùa, nhờ nhà chùa chăm lo hương khói. Kiến trúc này tạo nên loại hình tiền Phật hậu tổ phổ biến cho hầu khắp chùa ở miền Trung. Còn ở những chùa miền Bắc thì hầu như không thấy kiểu sắp xếp này. Mà chỉ có kiểu “tiền Phật hậu Thần (hay Mẫu)”.
Một điểm nữa trong kiến trúc chùa miền Trung – Hải Lăng là dù tổng thể ngôi chùa xây dựng theo lối chữ Khẩu “口” hay chữ Tam “三” thì gian chính giữa bao giờ cũng được sử dụng làm nơi thờ Phật. Và tuỳ mỗi chùa thì việc thờ tự hay sắp xếp các tượng thờ này có những nét khác nhau riêng.
Về sắp xếp các tượng thờ trong chùa: Đa số các chùa ở miền Trung đều có thờ Phật Di Lặc, Địa Tạng, hay tượng Quán Thế Âm. Nguyên do cũng vì lịch sử của mảnh đất này mà ra cả. Vì xưa kia, miền Trung là khu vực luôn chịu ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt từ biển thổi vào, rồi gió Lào khô nóng, đất đai thì khô cằn, dọc duyên hải ven biển vào mùa mưa thì mưa dầm dề. Cũng chính sự khắc nghiệt đó đã khiến cho con người nơi đây muốn tồn tại thì buộc lòng phải rất kiên cường. Cũng từ quan niệm muốn được cứu rỗi khỏi những tai ương trong cuộc sống nên người miền Trung đã chọn Địa Tạng Bồ Tát để tôn thờ. Rồi đến chiến tranh nổ ra giữa nhân dân với chúa Nguyễn ở Bình Thuận, hay sau đó là phong trào Tây Sơn… đã khiến cho người dân tin vào Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn.
Và sau khi chiến tranh đã đi qua, người dân bắt tay vào giai đoạn xây dựng lại cuộc sống mới, vì thế mà họ lại thờ Phật Di Lặc với mong muốn sẽ có được một cuộc sống ấm no, vui vẻ, bình yên cho mọi nhà.
Tượng chùa Hải Lăng, ngoài tượng thờ Thích Ca, còn thờ cả tượng chư Phật và chư vị Bồ Tát. Tuy nhiên so với Bắc Bộ và chùa ở Huế, thì các chùa ở Hải Lăng việc bố trí tượng thờ thường khá đơn giản. Cụ thể đó là nhiều ngôi chùa thờ tượng “Tam thế Phật” được thay thế bằng tượng Di Đà Tam Tôn (pho tượng lớn nhất là tượng A Di Đà, 2 pho tượng hai bên nhỏ hơn, hoặc đứng hoặc ngồi, đây là tượng hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát, là 2 vị giúp đỡ A Di Đà trong việc tiếp dẫn chúng sanh về cõi cực lạc). Đôi lúc, 2 pho tượng này còn được thay bằng hai pho tượng khác là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát.
Xuống dưới còn có tượng Di Lặc, một vị đại Bồ Tát sắp thành Phật và kế vị đức Thích Ca làm giáo chủ của xứ Ta Bà để giáo hoá chúng sinh, sau khi hết đời mạt phát. Tượng được tạc với hình thù một vị to béo, đẫy đà, bụng phệ ngồi trên toà sen, miệng cười hớn hở (vì thế dân gian thường hay gọi phật Di Lặc là ông Vô Lo (Vô Ưu), hay còn gọi là ông “ nhịn mặc mà ăn”.
Xuống phía dưới có chùa còn đặt thêm cả tượng Tuyết Sơn (tượng thể hiện lúc Thích Ca đang tu phép khổ hạnh trên núi Tuyết Sơn ở Tây Tạng. Dân gian còn có tên gọi khác là “ông nhịn mặc mà ăn”.
Ngoài ra, ở phía dưới một số chùa còn thờ cả tượng “Thích ca sơ sinh” với hình dáng Thích Ca lúc còn nhỏ, đứng trên một đài sen, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất với ý nói rằng: “Thiên Thượng, địa hạ duy ngã độc tôn”(nghĩa là trên trời, dưới đất chỉ có ta là đáng tôn thờ).
Về hướng chùa: Chùa ở khu vực Hải Lăng thường được xây dựng dựa trên quan niệm xưa, lối phong thuỷ, dịch học... mà thành, và thông thường các chùa thường quay về hướng Nam trước hết để tránh được gió Phơn Tây Nam, và đón gió Nồm mát từ biển thổi vào.
Chùa xoay về hướng Nam còn mang ý nghĩa rằng: các đức Phật và Bồ Tát ngồi quay về hướng Nam để nghe được những lời kêu cứu của chúng sinh trong kiếp đời tục luỵ, để rồi dùng pháp lực vô biên của mình (đó là Từ Bi Hỷ Xả) để cứu vớt chúng sinh.
Hướng Nam trong quan điểm của đạo Phật còn là hướng của Bát Nhã (nghĩa là của trí tuệ sáng suốt) để hướng đến sự giải thoát không những cho chính bản thân người tu hành mà còn cứu vớt cho thập loại chúng sinh.
Tuy nhiên bên cạnh đó, ở Hải Lăng vẫn có những ngôi chùa được xây dựng với hướng chính công trình có thể là hướng Tây – hướng nhìn về đất Phật (xứ Tây trúc). Ngoài ý nghĩa đó, thì trong quan niệm Phật giáo cũng cho rằng hướng Tây là hướng ổn định nhất trong tất cả các hướng. Hướng Tây phù hợp với sự vận hành của âm – dương. Nó khiến cho thần linh không rời bỏ nghĩa vụ cứu vớt chúng sinh đang đau khổ.
Hay cả hướng Đông cũng được dùng làm hướng để dựng chùa.Vì đây là hướng của thần, là hướng mà các tăng ni, Phật tử hướng đến để đi về phía đất Phật. Có thể nhận thấy được rằng, hướng của các ngôi chùa thường dễ chọn hơn hướng của các ngôi đình.
Theo quan niệm của Phật giáo, đa số các hướng đều tốt, cũng vì thế mà cư dân ở Hải Lăng thường chọn hướng xây chùa theo hướng của các nhà trong làng. Và nếu làng nào có sông chảy ngang qua thì lấy đó làm hướng chính để dựng chùa.
Chùa ở Hải Lăng ra đời và phát triển cùng với làng xóm của cư dân Việt khi họ vào đây sinh sống. Cũng vì thế, đa số chùa ở Hải Lăng đều được xây dựng theo kiểu chùa làng.
[1] ***Tam quan là 3 lối nhìn:
- “Không quan”: (Không là bản thể, là cốt lõi, là cội nguồn, là gốc của muôn loà; Quan là lối nhìn, nhận thức) nghĩa là lối nhìn về lẽ không.
- “Giả quan”: (là nhận thức về quy luật vô thường của muôn loài, muôn vật. Và mọi pháp đều biến hoá giả tạm mang thành) là lối nhìn về lẽ sắc.
- Và, “Trung quan”: (là cách nhận thức chân chính, hoà hợp, chẳng phân hai, không lệ thuộc vào bất kể một nhận thức, sự kiện nào (hay vô chấp) là không phải không cũng không phải là giả mà là con đường của đạo dẫn đến giải thoát)”.
***Hay là, theo một cách nhìn khác Tam quan” là 3 cửa: đó là:
- Cửa Giới (giữ trọn những giới luật).
- Cửa Định (kiên định theo đường tu Phật).
- Và, Cửa Tuệ ( nghĩa là tu thì phải sáng suốt, phải trí tuệ).
Một cách hiểu khác là:
***Tam quan” chính là “Khổ (chính là nỗi khổ của đời), Vô thường (là muôn vật biến đổi không ngừng, trong đó nỗi khổ cũng không ngừng biến đổi), Vô ngã (nghĩa là không có cái tôi, mà mọi thứ chỉ là tạm bợ, chỉ tồn tại trong một chốc lát rồi biến đổi)”.
Chùa Doanh Kinh, Hải Xuân, Hải Lăng, Quảng Trị
Chùa Duân Kinh, Hải Xuân, Hải Lăng, Quảng Trị
Chùa Duân Kinh, Hải Xuân, Hải Lăng, Quảng Trị
Chùa Duân Kinh, Hải Xuân, Hải Lăng, Quảng Trị
Chùa Chơn Bảo, làng Hồi Kỳ, Hải Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị
Chùa Chơn Bảo, làng Hồi Kỳ, Hải Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị
Chùa Câu Nhi, xã Hải Tân, Hải Lăng, Quảng Trị
Chùa Câu Nhi, xã Hải Tân, Hải Lăng, Quảng Trị
Chùa Câu Nhi, xã Hải Tân, Hải Lăng, Quảng Trị
Chùa Câu Nhi, xã Hải Tân, Hải Lăng, Quảng Trị
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét