1. Đặt vấn đề.
Nhà ở nông thôn truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ (ĐBBB) đang ngày bị mai một, biến mất dần do nhiều yếu tố tác động như: ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa; ảnh hưởng của khí hậu và thời tiết; địa chất thủy văn; nấm mốc, rêu xâm thực; do môi trường, cảnh quan thay đổi; do điều kiện phát triển kinh tế; do điều kiện bảo quản và do chính sự lãng quên của con người… Ngày nay, đứng trước nguy cơ của biến đổi khí hậu toàn cầu, trước nguy cơ mà con người đã và đang phải gánh chịu do sự tàn phá môi trường thiên nhiên của chính mình. Chúng ta buộc phải nhìn lại những cái được và cái mất trong quá trình đô thị hóa ồ ạt, thiếu định hướng đang làm phá vỡ cấu trúc bền vững của nông thôn mà đô thị lấn ép. Việc biến “làng” thành “phố” trong khi điều kiện về cơ sở vật chất, kinh tế kỹ thuật và văn hóa của nông thôn chưa theo kịp văn minh đô thị đang làm xáo trộn và ăn mòn nhanh chóng nền văn hóa làng xã vốn bền vững có từ ngàn đời nay. Để góp phần kết nối các nghiên cứu về bộ vì kèo trong kết cấu gỗ từ các nhà học giả có tên tuổi trước đây. Chúng tôi xin được tổng quan lại quá trình biến đổi kết cấu chịu lực trong tiến trình phát triển của nhà ở nông thôn vùng ĐBBB.
2. Kết cấu nhà ở nông thôn giai đoạn trước năm 1954.
Khi nói đến hệ kết cấu ngôi nhà ở nông thôn truyền thống xưa vùng ĐBBB, ta phải nói đến hệ vì kèo gỗ, theo tổng hợp của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Tụng có 11 loại vì kèo cơ bản. Hệ vì kèo ngoài kết cấu nâng đỡ ngôi nhà nó còn thể hiện sự đơn giản hay phức tạp của ngôi nhà, thể hiện sự giàu sang có hay nghèo khó của gia chủ.
- Vì kèo nhà lều, nhà tạm: loại nhà đơn giản như Lều và Chòi, dành cho nhà nghèo hay nhà phụ, kho chứa lương thực, chuồng trại của nhà giàu. Bộ sườn của lều có hai vì kèo rất đơn giản, hai vì liên kết với nhau bởi thanh đòn nóc và một số đòn tay (thanh liên kết ở đầu cọc chống). Mỗi vì có một thanh kèo, cọc cái chôn ở giữa vì và hai cọc con ở mái trước và mái sau, thanh kèo là cây tre hóp được uốn cong vắt qua cọc cái. Liên kết vì kèo bằng dây buộc như dây lạt, song, mây.
- Vì kèo ba cột: dùng cho nhà phụ, nhà bếp, chuồng trại, nhà kho. Mỗi vì có bộ kèo đơn hoặc kép (bộ kép là kèo tre), cột cái ở giữa chống vào chỏm kèo, hai cột con hai bên đầu kèo, vì kèo liên kết với nhau bởi thanh đòn tay hay xà ngang. Liên kết bằng chốt tre hay chốt gỗ.
- Vì quá giang – kèo cầu: vì tương tự bộ vì kèo ba cột nhưng khác ở chỗ cột cái ở giữa không chôn xuống đất mà đứng trên lưng quá giang (trụ trốn). Vì này hay dùng cho nhà phụ, quán, điếm canh hay các cây cầu có mái thường thấy ở đồng bằng (thượng gia – hạ kiều). Vì được liên kết bằng mộng.
- Vì kèo cầu – cánh ác: vì này được biển thể bởi vì quá giang – kèo cầu, trụ trốn ở giữa không chống trực tiếp lên chỏm kèo mà bị chặn lại bởi một thanh đòn ngang bên trên quá giang, thanh đòn này được gọ là “cánh ác”.
- Vì kèo suốt – quá giang: là vì đơn giản dùng trong nhà phụ, nhà bếp được biến thể từ vì kèo cầu – cánh ác nhưng được bỏ hoàn toàn trụ trốn và thanh cánh ác.
- Vì kèo suốt – giá chiêng: là bộ vì kèo điển hình trong kết cấu gỗ nhà ở vùng ĐBBB, loại hình kết cấu gỗ đã tích lũy kinh nghiệm từ các hệ vì kèo trước đây. Bộ vì có 4 – 6 cột, vì 4 cột gọi là vì bốn hàng chân, gồm hai cột cái và hai cột con; bộ 6 cột gọi là vì sáu hàng chân, ngoài hai cột cái, hai cột con còn có hai cột hành (còn gọi là cột hiên). Kèo được lắp vào đầu các cột bằng mộng (nếu hệ kèo kép bằng tre thì liên kết bằng chốt), đầu các cột được liên kết với cột cái bằng một xà ngang. Tùy theo vị trí và nhiệm vụ của mỗi xà ngang mà chúng được gọi với các tên khác nhau như xà thượng, xà đại, xà con, xà hạ. Thanh nối hai đầu của cột cái gọi là “câu đầu”, tựa trên lưng câu đầu có hai trụ ngắn, miếng gỗ kê dưới hai chân trụ là “cái đấu”. Đầu hai trụ câu với nhau bởi đòn ngắn gọi là “con cung” hay “con lợn”. Hệ khung được tạo nên bởi hai trụ và con cung gọi là “giá chiêng”. Các vì kèo liên kết với nhau bằng các xà dọc.
- Vì trên kèo dưới kẻ: bộ vì này giống tương tự vì kèo suốt – giá chiêng, chỉ khác là phần dưới của kèo, đoạn hiên được thay bằng “kẻ” hay thường gọi là “kẻ hiên”, kẻ là thanh kèo uốn cong nối giữa cột con và cột hiên.
- Vì trước kèo – sau bẩy: giống tương tự vì trên kèo – dưới kẻ, chỉ khác ở chỗ phần kẻ phía sau của nhà được thay bằng bẩy.
- Vì kẻ truyền – giá chiêng: là loại vì kèo biến thể từ bộ vì kèo suốt – giá chiêng, chỉ khác thanh kèo không còn mà được thay toàn bộ bằng những cái kẻ, riêng cái giá chiêng vẫn còn giữ lại.
- Vì chồng rường – giá chiêng: là bộ vì được biến đổi từ bộ vì kẻ truyền – giá chiêng. Kết cấu vì kèo này là vẫn giữ giá chiêng, nhưng hai bên giá chiêng thay kẻ bằng những “con rường” chồng nhau.
- Vì chồng rường: là vì trên cơ sở dùng bộ vì chồng rường – giá chiêng nhưng sử dụng con chồng rường dài đỡ cả hệ hoành phía mái trước và mái sau, bỏ luôn cả hệ giá chiêng. Bộ vì chồng rường là hệ kết cấu hoàn thiện nhất của các loại vì kết cấu gỗ vùng ĐBBB, nó thường dùng trong các công trình kiến trúc gỗ của nhà giàu có hoặc các công trình đền, đình, chùa trong kiến trúc công cộng của nông thôn người Việt.
Hệ kết cấu mái gồm: hoành, riu, mè đều bằng gỗ. Mái lợp hai lớp, lớp dưới là ngói liệt, lớp trên là ngói mũi.
3. Kết cấu nhà ở nông thôn giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1986.
Giai đoạn này, tại miền Bắc chúng ta đang ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà ở nông thôn vùng ĐBBB cũng được quan tâm và ngày càng xây dựng đàng hoàng hơn. Hàng loạt nhà ở tạm, tranh tre, nứa lá đã dần được thay thế bởi nhà tường gạch chịu lực, mái lợp ngói đỏ san sát làm cho bộ mặt nhà ở nông thôn mới kết hợp với những cánh đồng lúa chín vàng tạo nên bức tranh tuyệt đẹp.
Kết cấu nhà ở nông thôn đã chuyển sang hệ kết cấu mới, phù hợp với vật liệu và sự tiến bộ của công nghệ xây dựng. Hệ thống kết cấu gỗ truyền thống với những bộ vì kèo giá chiêng đã được thế bởi hệ kết cấu kết hợp giữa vì kèo gỗ và tường gạch xây hoặc đá ong chịu lực.
Vì kèo được sử dụng rộng rãi vào giai đoạn này là biến đổi từ hệ vì kèo suốt – giá chiêng trước đây. Vì kèo chỉ còn 1 cột cái và 3 trụ gạch đỡ thay cho 4 cột gỗ, trong đó một cột cái chỉ còn một đoạn tựa lên thanh quá giang và phía trên làm thành hệ giá chiêng. Một cột cái được tựa trên trụ xây gạch của bức tường hiên, một cột hậu được tựa trên trụ gạch của bức tường hậu, cột hiên cũng được thay bằng cột bê tông hoặc trụ gạch xây.
Kết cấu mái nhà sử dụng tre, luồng như: hoành, riu, mè đều bằng luồng ngâm chẻ ra bào nhẵn. Mái lợp ngói hai lớp, ngói liệt và ngói mũi. Hệ thống cửa bức bàn của kết cấu gỗ truyền thống đã được thay thế bằng cửa mở cánh bản lề goong chôn vào tường gạch, phần lớn là cửa không khuôn.
Nhìn chung, kết cấu nhà ở nông thôn ĐBBB giai đoạn này đã kết hợp cả kết cấu gỗ với các hệ kết cấu chịu lực khác. Kết cấu gỗ không còn được coi trọng vì lý do gỗ càng ngày càng khan hiếm nhưng chủ yếu vẫn là do yếu tố bài cổ, tư tưởng sùng bái nền văn minh thành phố đã nhiễm nặng vào văn hóa truyền thống nông thôn.
4. Kết cấu nhà ở nông thôn giai đoạn từ năm 1986 đến nay.
Sang thời kỳ đổi mới, nền kinh tế xã hội phát triển và quá trình đô thị diễn ra ngày một nhanh chóng. Nhà ở nông thôn cũng được dịp để trăm hoa đua nở với đủ các hình thức, phong cách kiến trúc được du nhập từ khắc mọi nơi. Các ngôi nhà nông thôn mới tuy hiện đại hơn, tiện nghi hơn nhưng xa lạ với cảnh quan, xa lạ với nền văn hóa truyền thống vốn có lâu đời của nông thôn vùng ĐBBB.
Giai đoạn này, hệ kết cấu gỗ truyền thống hoặc bán kết cấu gỗ đều đã bị quên lãng vì người dân xem nó không phù hợp với phong cách kiến trúc hiện đại và văn minh nữa. Kết cấu chịu lực của ngôi nhà là kết cấu khung bê tông cốt thép chịu lực, tường xây xây chèn hoặc tường gạch chịu lực, đổ bê tông mái bằng, nhà đóng kín trong cái hộp hình chữ nhật đúng như mẫu nhà chia lô trong các đô thị đầu thập kỷ 90. Nhà ở nông thôn vùng ĐBBB đã bị biến thái sang nhà chia lô phố một cách tự phát, không còn hình ảnh nhà nông thôn với những khu vườn cây trái trĩu quả và ngôi nhà năm gian kết cấu gỗ in bóng xuống mặt nước ao hồ nuôi cá. Nếu chúng ta không thực sự nhìn nhận lại giá trị của những ngôi nhà kết cấu gỗ cổ truyền thì tất cả dần chỉ còn lại trong tiểu thuyết lãng mạn và hình ảnh “làng” chỉ là dĩ vãng mà thôi! Thực sự, nhà ở nông thôn vùng ĐBBB hiện nay đang rất hỗn độn, không phương hướng, không lối thát.
Tuy nhiên, một nghịch lý nhưng có lẽ cũng là sự may mắn còn sót lại đó là: những người nông dân làng đang muốn phá bỏ những ngôi nhà gỗ cổ truyền hàng trăm năm mà cha ông họ tạo dựng để tìm đến ngôi nhà bê tông vô hồn thì lại có những người dân trên phố thị tìm về làng quê để mua lại khuôn viên khu đất và ngôi nhà truyền thống làm nơi nghỉ ngơi cuối tuần. Họ xem đó là món quà vô giá mà cuộc sống đã ban tặng để họ được sống gắn với môi trường thiên nhiên mà chỉ có ở các vùng làng quê thanh bình. Một số người dân quyết không từ bỏ nền văn hóa kiến trúc cổ truyền, nay họ đã quay về với hệ kết cấu vì kèo chồng rường – giá chiêng để xây dựng các ngôi nhà gỗ cổ truyền phong cách mới với những chạm khắc gỗ mà công nghệ xây dựng hiện đại đã giúp tạo ra những sản phẩm kết cấu gỗ vô cùng độc đáo và đầy nghệ thuật.
5. Kết luận.
Quá trình xây dựng nhà ở kết cấu gỗ cổ truyền vùng ĐBBB là sự tích lũy vốn sống hàng ngàn đời của người nông dân, nhà cửa của họ khi xây dựng phải phù hợp với môi trường thiên nhiên, nương nhờ vào thiên nhiên tạo nên một hệ sinh thái bền vững. Kiến trúc nhà ở vùng ĐBBB có nhiều ưu điểm như: sử dụng vật liệu xây dựng sẵn có của địa phương, tận dụng kỹ thuật xây dựng truyền thống, đáp ứng điều kiện môi trường khí hậu nóng ẩm, giải pháp phù hợp với hệ thống cảnh quan của các vùng nông thôn như cây xanh, mặt nước hồ ao, sông ngòi, đồi núi… tất cả hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình, đầy thơ mộng của nông thôn trù phú vùng châu thổ sông Hồng./
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét